Kết quả và những ảnh hưởng của chiến dịch Trận_Moskva_(1941)

Quân đội Liên Xô thu hồi thành phố Yukhnov, ngày 10 tháng 4 năm 1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)

Với cả triệu binh sĩ và dân thường, cùng với hàng nghìn xe tăng, súng cối, đại bác và máy bay chiến đấu, trận đánh Moskva trở thành một trong những trận chiến quy mô lớn nhất của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai. Trận chiến đã kéo dài đến bảy tháng.[12] Trận này trở thành một thất bại của Hitler trong việc đánh chiếm ba địa bàn quan trọng của Liên Xô là Moskva, Leningrad và Stalingrad - cuối cùng dẫn đến chiến bại của ông trong cuộc xâm chiếm Liên Xô.[15] Với cuộc phản công chiến lược của mình, quân đội Liên Xô đã kết liễu kế hoạch chấm dứt nhanh gọn cuộc chiến tranh của nền Đệ Tam Đế chế Đức.[13] Thắng lợi tại Moskva đã nêu bật sự kiên quyết của Liên Xô trong nỗ lực chiến tranh của mình,[14] và sau thất bại này, nước Đức bước vào năm 1942 mà chưa thể chấm dứt cơn đại chiến trên cả hai mặt trận.[16]

Kết quả

Là một thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn,[13] Chiến dịch phòng ngự-phản công của Hồng quân Xô Viết tại khu vực Moskva mùa Đông 1941-1942 đã làm tiêu tan huyền thoại về sự bách chiến bách thắng của Quân đội Đức Quốc xã. Theo nguồn từ Nguyên soái Liên Xô Aleksandr Vasilevsky thì đây là trận thua lớn nhất từ đầu Thế chiến thứ hai của quân đội Đức với hơn 50 vạn sĩ quan và binh sĩ bị tiêu diệt, hơn 70 vạn quân nhân bị thương, hơn 50 sư đoàn Đức bị đánh tan, 1.300 xe tăng, 2.500 đại bác, hơn 15.000 xe cơ giới khác bị Quân đội Liên Xô phá hủy hoặc thu giữ.[64] Trong đó phải kể đến tổn thất rất cao của Quân đội Đức trong những đợt công kích ác liệt nhằm chiếm đoạt thành Moskva.[13] Quân đội Liên Xô cũng chịu tổn thất lên đến gần 1.200.000 người, trong đó có hơn 662.000 quân nhân chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh trong đợt tấn công đầu tiên của quân Đức tại khu vực Rzhev - Vyazma.[65]

Một nhóm Quân đội Đức Quốc xã hạ vũ khí đầu hàng Quân đội Liên Xô tại khu vực Moskva ngày 20 tháng 12 năm 1941

Mặc dù ngày 3 tháng 1 năm 1942, Hitler đã ra chỉ lệnh cho quân Đức không được lùi một bước nhưng Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức vẫn bị hất xa ra khỏi Moskva từ 150 đến 300 km. Tuy trận Moskva đến đầu tháng 1 năm 1942 được coi là hoàn thành nhưng cuộc tấn công của quân đội Xô Viết còn tiếp tục phát triển thành tổng tấn công trên toàn mặt trận Xô – Đức trong những tháng đông – xuân của năm 1942 với các cuộc tấn công tại Tikhvin, Rostov, cuộc đổ bộ đánh chiếm căn bàn đạp Kerch - Feodosiya trên bán đảo Krym. Mặc dù bị chặn đứng trước chân tường thủ đô Liên Xô nhưng tiềm lực của nước Đức Quốc xã vẫn còn rất mạnh, hoàn toàn chưa thể đổ vỡ sau đại bại ấy. Quân đội Liên Xô tuy tạm thời giành lại quyền chủ động chiến lược nhưng vẫn chưa có đủ lực lượng dự bị mạnh để phát huy chiến quả, giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến. Song, dẫu sao đi nữa thì chiến thắng tại Moskva cũng trở thành một bước ngoặt cho cuộc Chiến tranh Xô - Đức.[1][14] Toàn thắng tại trận Moskva cho thấy sức chiến đấu của quân đội Liên Xô càng quyết liệt khi quân đội Đức càng tiến sát đến mục tiêu của mình, khiến cho quân Đức hoàn toàn thất bại sau một loạt thắng lợi của họ.[13]

Thắng lợi quan trọng của quân đội Liên Xô tại cổng thành Moskva cũng ghi dấu chiến công của lực lượng du kích Xô Viết hồi ấy, đã gây khó khăn cho quân lực Đức Quốc xã[13]. Sau chiến thắng của quân Liên Xô trong trận Moskva, tình hình thủ đô được cải thiện. Vào Mùa Xuân năm 1942, những công xưởng và cửa hàng bị rời bỏ đã trở lại hoạt động, cuộc sống của người dân Moskva trở lại bình thường.[17] Chính trong những ngày ác chiến tại Moskva, nhân dân thủ đô, trong đó có cả nhiều phụ nữ, cũng đóng góp rất lớn cho chiến thắng, với việc xây dựng hệ thống phòng thủ trong đó có các chiến hào, hào chống tăng, v.v...[13]

Đánh giá

Báo Sao đỏ của Quân đội Liên Xô ra ngày 10 tháng 5 năm 1942 tuyên truyền về thắng lợi của Chiến dịch phản công chiến lựoc tại khu vực Moskva mùa Đông 1941-1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)

Đánh giá về ý nghĩa và nguyên nhân chiến thắng, Nguyên soái Georgy Zhukov viết trong bài viết "THẮNG LỢI CỦA LIÊN XÔ VÀ SỰ BẤT LỰC CỦA NHỮNG KẺ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ đăng trên tập san "Người cộng sản" số 1, tháng Giêng, 1970" như sau:

Nhiều tướng lĩnh và nhà viết sử tư sản đổ lỗi tất cả cho bùn lầy và đường xấu. Họ đang cố tìm cách giải thích kế hoạch chiếm Moskva của Hitler bị tan vỡ không phải vì các chiến sĩ Xô-viết có tinh thần anh dũng và các cán bộ chỉ huy của họ tài giỏi và quả cảm, mà vì thời tiết xấu, đường sá đi lại khó khăn và băng giá. Nhưng chính mắt tôi đã trông thấy trong bùn lầy và trên các con đường xấu đó hàng ngàn, hàng ngàn người Moskva, nói chung chưa quen làm đất, đá đã rời những gian nhà đầy đủ tiện nghi ở thành phố đi đào các hố chống tăng, hào giao thông, đắp những ụ đất làm các vật chặn đường, hàng rào dây thép gai, khuân vác những bao cát. Bùn đất bám vào chân họ, vào bánh các xe chở đất, bùn đất đã làm cho các lưỡi xẻng thêm nặng, mà ngay khi không có bùn đất bám, xẻng đó đã không phù hợp với bàn tay phụ nữ. Đối với những kẻ muốn lấy thời tiết xấu để che lấp nguyên nhân thực sự của các thất bại ở Moskva, cần nói thêm rằng, tháng 10-1941, đường sá chỉ lầy lội trong một thời gian tương đối ngắn. Đầu tháng 11 bắt đầu rét, tuyết rơi thì đất đai và đường sá đều dễ đi rồi.

Không phải! Mưa và tuyết không thể chặn được bước tiến của quân địch ở Moskva. Chính là đạo quân hơn 1 triệu tên lính phát-xít tinh nhuệ đã vấp phải tinh thần vững như thép, lòng dũng cảm và khí phách anh hùng của các chiến sĩ Xô-viết có sự hậu thuẫn của nhân dân, của Thủ đô và Tổ quốc...
Không, không phải là thời tiết, mà là con người, những người Xô-viết! Đó là những ngày đặc biệt không bao giờ quên được, những ngày mà hoài bão duy nhất là bảo vệ Tổ quốc và lòng yêu nước vĩ đại của toàn thể nhân dân Liên Xô đã thôi thúc mọi người xông lên lập chiến công.[66]

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng binh lính Đức bị tổn thất rất nhiều vì tê cóngbệnh dịch. Một số sư đoàn Đức rơi rụng chỉ còn 50% thực lực[67]. Quân Đức đã thiếu chuẩn bị trang bị, chiến thuật tác chiến mùa đông, trong khi lực lượng Liên Xô thì đã chuẩn bị chu đáo và rất quen thuộc với tác chiến trong điều kiện băng giá. Tướng Erhard Raus – người nổi danh trong giới quân sự Đức với tư cách là một trong những nhà chiến thuật lỗi lạc trong chiến tranh thiết giáp đã ghi lại nhiệt độ trung bình hàng ngày gần Moskva trong suốt chặng đầu của tháng 12 năm 1941 như sau: ngày 1/12: -7 độ C, 2.12: -6 độ C, 3/12: -9 độ C, 4/12: -36 độ C, 5/12 -37 độ C, 6/12: -37 độ C, 7/12: -6 độ C, 8/12: -8 độ C. Những ngày sau đó trong tháng, nhiệt độ giảm không dưới – 45 độ C. Sư đoàn Thiết giáp số 6 của tướng Raus báo cáo mỗi ngày có khoảng 800 ca cóng lạnh. Nhiệt độ thấp nhất đo được trong toàn bộ kế hoạch này là -53 độ C (khu vực tây bắc Moskva vào ngày 26 tháng 1 năm 1942) trong khi trang thiết bị của Đức bắt đầu hỏng hóc khi nhiệt độ xuống -20 độ C. Các loại vũ khí không thể khởi động được, đặc biệt là các vũ khí chống tăng, chất lỏng giảm giật cho pháo đều đông cứng, dầu bôi trơn cho các vũ khí chính xác và súng máy cũng vậy. Tháp pháo của xe tăng thì không thể xoay được, và xe tăng thì phải hoạt động liên tục để tránh bị đông cứng. Trong khi đó, vũ khí của Hồng quân đều được thiết kế để vẫn đảm bảo độ tin cậy trong điều kiện lạnh khắc nghiệt như vậy, và quân Đức phải lui bước trước các đợt phản công dũng mãnh của bộ binh Nga. Hàng ngàn binh sĩ Đức đã bị đóng băng đến chết trong bộ đồng phục mùa hè vốn dành cho một chiến dịch ngắn ngủi.[67]

Về mặt điều kiện khách quan, mùa đông khắc nghiệt và "công bằng" như nhau với cả hai bên, nhưng về mặt tự chuẩn bị, quân Nga đã làm chu đáo hơn quân Đức và đó cũng là một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi của họ.

Một con tem năm 1975 của Liên Xô (cũ) ghi lại hình ảnh cuộc duyệt binh lịch sử ở Quảng trường Đỏ (Moskva) ngày 7 tháng 11 năm 1941

Đến trận Moskva năm 1941 thì chuỗi trận bất bại của Hitler chấm dứt. Lần đầu tiên kể từ sau hai năm chiến thắng liên tiếp, đoàn binh của Hitler đã phải triệt thoái trước một kẻ thù hùng mạnh.[13] Cùng với chiến bại của lực lượng Không quân Đức trong trận không chiến tại Anh Quốc, thất bại hoàn toàn trong trận Moskva đánh dấu từ xuống dốc của nền Đệ Tam Đế chế Đức ngay từ đỉnh cao vinh quang của nó.[15] Nhiều nhà phân tích quân sự cho rằng giới cầm quyền và các tướng lĩnh Đức Quốc xã đã bị những thắng lợi nhanh chóng hồi mùa hè năm 1941 "ru ngủ" và đánh giá thấp sức kháng cự, tinh thần chiến đấu và khả năng tổ chức các chiến dịch phản công lớn của Liên Xô. Toàn bộ lực lượng mà quân đội Đức huy động tấn công Moskva chỉ đủ sức chọc thủng mặt trận Liên Xô ở Vyazma, Bryansk và uy hiếp tuyến phòng thủ thứ ba của Liên Xô. Lực lượng Đức bị dàn mỏng trong khi mở rộng vùng chiếm đóng. Nhưng có lẽ sai lầm lớn nhất là về mặt chiến thuật. Việc bao vây Liên Xô tại Vyazma và Bryansk là đúng nhưng vì ám ảnh bởi trận Smolensk nên bộ chỉ huy Đức lại lấy các đơn vị xe tăng để diệt vây mà không làm như trận Belotok-Minsk là để bộ binh cầm giữ "cái chảo" còn huy động xe tăng tiến nhanh về Moskva. Việc để tập đoàn quân xe tăng 2 tiến xa rời các đơn vị khác nên khi nó bị phản kích thì phải dừng lại chống đỡ và khi nó tiến đánh Tula thì kiệt sức phải dừng lại. Sau đợt tấn công thứ nhất, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) vẫn tiếp tục chiến thuật cũ mà không hề biết rằng Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã phát hiện ra hai cánh quân lớn của Đức tập trung ở phía Bắc và phía Nam Moskva. Do đó, Quân đội Liên Xô đã xây dựng tại hai khu vực này các trận địa phòng ngự có chiều sâu với nhiều tuyến, nhiều lớp; lấy xe tăng và pháo chống tăng làm chủ lực và lần lượt bẻ gãy những "quả đấm" xung kích của ba tập đoàn quân xe tăng 2, 3, 4, sức mạnh tấn công chính của quân đội Đức. Một trong các sai lầm khác của Bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân Trung tâm là sử dụng xe tăng rộng rãi nhưng lại huy động ít bộ binh yểm hộ. Sự đơn độc của các đơn vị xe tăng Đức trên các hướng tấn công chính đã tạo điều kiện cho xe tăng và pháo chống tăng Liên Xô dàn trận phối hợp với bộ binh đánh những trận tiêu diệt lớn mặc dù quân Đức có nhiều xe tăng hơn. Do quá tin tưởng vào kế hoạch hợp vây của hai tập đoàn quân xe tăng và hai tập đoàn quân xung kích ở hai bên sườn, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) cũng hành động "lừng chừng" ở tuyến giữa mặt trận mặc dù họ có đủ lực lượng; tạo điều kiện cho Phương diện quân Tây (Liên Xô) tự do rút bớt các lực lượng ở giữa mặt trận để điều sang hai cánh, chặn đứng các cánh quân xung kích của Đức.[68]

Phim tài liệu về cuộc duyệt binh ngày 7-11-1941 của Hồng quân Liên Xô tại Quảng trường Đỏ

Bộ tư lệnh các phương diện quân Tây, Dự bị, Bryansk, Kalinin, kể cả Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô, cũng mắc một số sai lầm, nhất là vào giai đoạn đầu của chiến dịch. Việc bố trí dàn trải và chồng chéo các lực lượng của Phương diện quân Tây và Phương diện quân Dự bị hồi tháng 9 năm 1941 đã làm cho việc chỉ huy bị rối loạn. Hai tập đoàn quân 24 và 43 phòng ngự trên tuyến đầu bên cánh trái của Phương diện quân Tây nhưng lại thuộc Phương diện quân Dự bị mà sở chỉ huy của nó lại đặt ở tận Vyazma cách đó gần 200 km. Đến khi tập đoàn quân xe tăng 4 tấn công thì các tập đoàn quân này bị cắt rời khỏi chủ lực Phương diện quân Dự bị và nhanh chóng bị bao vây. Trong đợt một, Bộ tư lệnh hai phương diện quân Tây và Dự bị cũng không xác định được hướng tấn công chính của hai cánh quân xe tăng Đức nên không thể bịt được các cửa mở mà xe tăng Đức đã đột phá. Vào giai đoạn cuối chiến dịch, khi Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã suy yếu và rút lui, lẽ ra phải tăng cường thêm 4 tập đoàn quân cho các phương diện quân Tây, Kalinin và Bryansk để truy kích và đẩy quân Đức ra xa Moskva hơn nữa thì I. V. Stalin lại rút bớt Tập đoàn quân Xung kích 1 của Phương diện quân Tây, điều hai tập đoàn quân dự bị khác đến các hướng Tikhvin và Rostov để thực hiện tổng phản công một cách dàn trải trong khi tiềm lực của quân Đức ở cả hướng Tây, Tây Bắc và Tây Nam vẫn còn rất mạnh. Điều này đã làm cho cuộc tấn công vào "chỗ lồi" Rzhev - Vyazma của Quân đội Liên Xô phải thực hiện trong tình trạng không có lực lượng dự bị chiến dịch và do đó không thành công. Tập đoàn quân 33, quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và lữ đoàn đổ bộ đường không 8 phải tác chiến trong vòng vây của quân Đức tại đây đến cuối tháng 5 năm 1942 mới thoát vây với thiệt hại nặng nề [69]

Ảnh hưởng

Kết thúc giai đoạn phòng thủ Moskva. Quân đoàn kỵ binh 2 Ukraina của tướng P. A. Belov được phong danh hiệu "Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1", ngày 26 tháng 11 năm 1941

Vô cùng tức giận do thất bại ngay trước chân thành Moskva, Hitler lập tức phế truất chức vụ Tổng tư lệnh Lục quân Đức của Thống chế Walther von Brauchitsch và tự mình đứng vào chức vụ này. Ông ta cũng cách chức Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế Fedor von Bock (mặc dầu khi ấy Von Bock không được khỏe); cách chức Tư lệnh Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Wilhelm Guderian cùng hàng chục tướng khác.[14][70] Chiến thắng của Liên Xô tại trận Moskva cũng làm phân hoá nội bộ phe Trục. Các nước Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ phải cân nhắc lại khả năng tham chiến chống Liên Xô. Người Đức cũng bắt đầu nghi ngờ vào thiên tài của Fuhrer, sự hoài nghi và phản đối trong lòng nước Đức được nhen nhóm cùng với tâm lý lo lắng và bi quan tăng lên khi họ nhớ đến thất bại của Napoleon trong cuộc chiến tranh năm 1812. Các nhà chiêm tinh học bắt đầu lao vào nghiên cứu số mệnh của Napoleon và của cả Hitler.[71] Tướng Gluther Blumentritt, Tham mưu trưởng của Tập đoàn quân thứ tư của Đức, đã đọc lại Hồi ký của một viên tướng của Napoleon là Armand Augustin Louis de Caulaincourt, trong đó kể về Mùa Đông Nga khủng khiếp và sự thất bại hoàn toàn của Napoleon I.[13] Việc nước Đức Quốc xã bắt đầu gây sức ép, đòi hỏi các nước chư hầu của mình phải đưa thêm nhiều binh đoàn mới sang mặt trận Xô-Đức để "chia sẻ" trách nhiệm với quân đội Đức đã làm cho tình hình chính trị bên trong những nước đó bắt đầu mất ổn định.[72]

Huân chương phòng thủ Moskva 1941 của Nhà nước Liên Xô

Lần đầu tiên quân đội vô địch của Đức Quốc xã đã bị thất bại trong một trận đánh có tầm chiến lược. Uy thế của quân đội Đức từng làm mưa làm gió trên chiến trường châu Âu đã bị chôn vùi trong trận Moskva. Nó đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của Kế hoạch Barbarossa, buộc giới cầm quyền phát xít Đức phải đưa ra một kế hoạch mới để tiếp tục cuộc chiến tại mặt trận Xô-Đức với những mục tiêu hạn chế hơn. Kể từ thời điểm này, nước Đức Quốc xã phải chấp nhận kiểu chiến tranh lâu dài tiêu hao cường độ cao với Liên Xô – một cường quốc rộng lớn nhất thế giới có số dân đông, tiềm lực chiến tranh vô cùng to lớn đang ngày càng được huy động nhiều hơn. Chiến tranh càng kéo dài thì càng bất lợi cho Đức Quốc xã vì nước này chưa sẵn sàng cho kiểu chiến tranh tiêu hao như thế và tiềm lực chiến lược của nước Đức Quốc xã kém xa tiềm lực của đối phương. Hơn nữa, các lợi thế về tư duy quân sự, khả năng tác chiến, ưu thế vũ khí của quân đội Đức Quốc xã chỉ có tính tạm thời. Chiến tranh càng kéo dài và nhất là khi các tiềm năng của Liên Xô được phát huy, các ưu thế đó sẽ về tay quân đội Xô Viết. Do đó chiến thắng của Hồng quân tại Moskva trong năm 1941 khắc nghiệt nhất của chiến tranh là điềm báo trước cho thất bại của Đức trong toàn bộ cuộc chiến.[73]

Trong những ngày diễn ra cuộc phản công lớn của Quân đội Liên Xô trước cửa ngõ Moskva, Khối đồng minh toàn thế giới chống phát xít ra đời. Ngày 1 tháng 1 năm 1942, tại Washington, trên cơ sở "Hiến chương Đại Tây Dương" đã được các cường quốc Hoa KỳAnh ký kết hồi tháng 8 năm 1940, Liên Xô và 23 nước khác đã ký thỏa ước tham gia Hiến chương này, mở đường cho việc toàn cầu hoá khối Đồng minh chống phát xít. Chính phủ các đồng minh Anh, Mỹ đã thực sự tin rằng Liên Xô hoàn toàn có khả năng tự mình chống chọi lại được sức mạnh khủng khiếp của nước Đức quốc xã. Sự tin tưởng ấy đã dẫn đến các hiệp ước hợp tác và giúp đỡ nhau trong chiến tranh giữa Liên Xô với Anh và Mỹ được ký kết trong nửa đầu năm 1942. Uy tín quốc tế của Liên Xô tăng mạnh, thiện cảm đối với Liên Xô lên cao trong dư luận các nước đồng minh tạo thuận lợi cho các nỗ lực chung chống phát xít. Các quốc gia, các vùng đất đang bị Đức Quốc xã chiếm đóng bắt đầu hy vọng vào tương lai được giải phóng và điều đó làm cho họ mạnh dạn xây dựng các tổ chức, các lực lượng kháng chiến, chống phát xít Đức ngay tại những vùng đất bị chiếm đóng của Liên Xô và các nước khác.[74]